Trên vách đá thẳng đứng ở đoạn sông phía Tây có rất nhiều nếp đá cong nho nhỏ hình chữ “nhân”, trông rất giống chiếc áo giáp bạc khoác trên mình lực sĩ thời xưa. Phía trên đó là đỉnh núi đá vôi hình tròn đều, bề mật hình tròn đó bị thứ nước ngầm Oxy hóa sắt nhuộm thành màu vàng nâu, trông rất giống chiếc kim khôi (mũ vàng) đội trên đầu lực sĩ, do đó mà có tên gọi khe sông “Khôi vàng giáp bạc”. Còn khe sông “Quan tài sắt” ở đoạn phía Đông, do trong khe hở trên vách núi có đặt nhiều quan tài treo màu đen mà có tên này. Eo Vu hẹp và sâu, quanh co khúc khuỷu.
Thuyền bè đi đến khoảng giữa bỗng nhìn thấy núi to chắn ngang, đến gần nơi thì thấy núi non bao quang, đường đi uốn khúc, quả là “Sơn tắc nghi vô lộ, loan hồi biệt hữu thiên.” (núi chắn như mất lối đi, quanh co uốn khúc như không nhìn thấy trời). Hai bên khe sông, núi non kỳ vĩ nối tiếp kéo dài, áng mây mù phú quanh. Cảnh quan kỳ diệu và những điều huyền bí hấp dẫn tập trung vào mười hai ngọn núi Vu Sơn này. Sáu ngọn núi ơ bờ phía Bắc là Đãng Long, Thánh tuyền, Triều vân, Thần Nữ (Vọng Hà), Tùng Loan, Tập Tiên nối tiếp nhau nằm dọc theo sông, ngắm xem không bao giờ chán. Sáu ngọn núi ờ bờ phía Nam chi nhìn thấy ba ngọn là: Tụ Hạc, Thúy Bình và Phi Phụng.
Còn ba ngọn núi còn lại là Thượng Thăng, Khởi Vân và Tịnh Đàn vì là ba ngọn núi ơ phía sau bờ nam, cho nên “Thập nhị Vu Sơn kiến cứu phong” (mười hai ngọn núi Vu mà chí nhìn thấy có chín ngọn). Trong đó, ngọn núi Thần Nữ đẹp kỳ diệu nhất, là ngọn núi hằng ngày đón lấy ánh sáng mặt trời và chiều về tiễn đưa ánh hoàng hôn, vì thế còn có tên là “Vọng Hà Phong” (Ngọn núi ngắm ráng trời). Về ngọn núi Thần Nữ còn có một câu chuyện rất hay rằng: Thần Nữ vốn là con gái xinh đẹp của Vương Mầu Tây Thiên, cô thường tỏ lời mong muốn mười hai chị em mình đi xuống trần gian du ngoạn. Một hôm họ đến núi Vu, thấy Hạ Vũ đang bắt dân trị thủy, họ bèn cùng dân khai mương cho nước chảy. Sau đó, các tiên nữ thấy thuyền bè đi lại trên dòng nước này rất nguy hiểm cực khổ, thường bị va đá ngầm làm lật thuyền bè, vì thế các tiên nữ vui lòng cùng nhau ở lại núi vu, lo việc dẫn dắt thuyền bè đi lại an toàn. Năm tháng nối tiếp trôi qua, lâu dần các tiên nữ đã hóa thành mười hai ngọn núi. Ngày nay còn lưu lại câu thơ “Phóng chân hạ Vũ Hiệp, tâm tại thập nhị phòng” (thả thuyền qua khe Vu, lòng gửi lại mười hai ngọn núi. Mười hai ngọn núi như người hai thiếu nữa ngọc ngà đứng sừng sững, hàng ngày đưa rước thuyền bè qua lại.
Từ khóa tìm kiếm nhiều: lịch
sử vạn lý trường thành, di sản
văn hóa thế giới