Theo bia Đường ghi lại, vào năm thứ hai Kiến Nguyên tiền Tần (năm 366) có một vị hòa thượng cưỡi mây bay đến đỉnh núi Minh Sa gán Đôn Hoàng thuộc phần đất đầu phía Tây hành lang tỉnh Cam Túc, bỗng ông nhìn thấy trước mặt mình một vầng ánh sáng vàng rực lóe lên, hiện ra hàng hàng lớp lớp tượng Phật, vì thế ông đục một cái am thờ Phạt đầu tiên trên vách núi. Không bao lâu, một vị thiền sư tên là Pháp Lương đến đục tiếp cái hang thứ hai bên cạnh cái hang thư nhất. Sau đó, từ Bắc Ngụy, Bắc Chu trải qua Tùy, Đường, Ngũ Đại, Tống, Tây Hạ, Nguyên,… việc xây am tạc tượng, nhanh đèn cúng bái diễn ra không ngớt. Thời thịnh hành nhất có hơn 1000 am động. NHững am Phật ở trên núi cao chót vót này được coi là “Kho tàng vĩ đại nhất về nghệ thuật Phật Giáo trên thế giới”
Đoàn người buôn bán đi dài theo “Con dường tơ lụa”, khi rời khỏi hay trở lại Đôn Hoàng đều đến các am thờ Phật trên núi đốt nhang cúng bố thí hoặc bỏ tiền ra xây am, mời thợ đến vẽ hoặc tạc tượng để cầu mong đức Phật Bồ Tát dẫn đường, phù hộ độ trì bình an. Những biến cố lớn xảy ra trên “Con dường tơ lụa” đều được phán ánh lại trên các bích họa Đôn Hoàng. Chẳng hạn như bức họa “Trương Hiên đi sứ sang Tây Vực” và bức họa “Thương nhân bị cướp” ở am động thư 322 đã thế hiện rõ nét cảnh phồn vinh nhộn nhịp của “Con đường tơ lụa” xưa và sự gian nan cực khố’ đầy nguy hiểm trên con đường này.
Khác với các tượng điêu khắc đá của nhiều thạch động, tượng ở am động trên núi cao này được nặn bằng đất. Do chất nham thạch cua núi không rắn cứng nên không thể tạc thẳng tượng vào vách núi. Những người thợ khéo tay lành nghề đã dùng một loại cỏ lác rất đặc biệt của vùng sa mạc để bao quanh các thanh gỗ làm khung, bên ngoài đắp đất và vẽ màu. Có hai loại tượng: tượng một thân và tượng nhiều thân. Tượng nhiều thân thường đặt chính giữa các tượng Phật, hai bên có hàng tượng đệ tử, Bồ Tát, Thiên Vương, lưc sĩ, ít thì ba tượng, nhiều thì 11 tượng. Bức tượng Phật ngồi lớn nhất trong hơn 2400 tượng cao 33m, tượng nhỏ nhất chỉ hơn l0 cm, tạo hình sinh động, đường nét tinh vi uyển chuyến. Từ các tượng hình người này có thê nhận ra được phong cách cua các thời kỳ khác nhau. Chẳng hạn như tượng của thời Bắc Ngụy thường là thô to khoẻ khoắn, dũng mãnh, nếp gấp của áo sát người. Tượng người thời Tùy Đường có phong thái ung dung khoan thai, đường nét thanh thoát, màu sắc tươi dẹp. Đến đời Minh, tượng thường chuộng đường nét đơn gián, khỏe khoắn. Tượng màu trong am động số 322 (Sơ Đường), từ các tượng Bồ Tát, Thiên Vương đến đệ tử đều mang hình tượng các dân tộc ít người của vùng Tây Bắc Trung Quốc.
Đọc thêm tại:
- http://timhieukiquan.blogspot.com/2015/04/khai-quat-lang-mo-tan-thuy-hoang.html
- http://timhieukiquan.blogspot.com/