Các nước ven bờ vịnh Ba Tư

     Các nước ven bờ vịnh Ba Tư như Iran, Irac, Á-Rập, Saudi, Kuwait, Bahrain, Qatar và khối A-Rập thống nhất, đều là những nước giàu về dầu khí trên thế giới, trong những nước xếp đầu thế giới về sản xuất dầu khí thập niên 90 của thế kỷ 20, thì từ thứ nhất đến thư năm đều tập trung ở vịnh Ba Tư, tức là các nước Ả Rập Saudi, Irac, Kuwait, khối ARập thống nhất và Iran. Từ lượng dầu khai thác của quốc gia dầu khí khổng lồ A Rập Saudi là 22,6 tỷ tấn, chiếm 1/4 tổng trữ lượng dầu khí thế giới, vượt xa tổng trữ lượng dầu khí cửa tất cả các nước phát triển.

     A Rập Saudi là nước xuất khẩu và sản xuất dầu khí lớn nhất thế giới, lượng xuất khẩu mỗi năm cao, chiếm 1/3 tổng sản lượng xuất khẩu thế giới. Mấy năm gần đây lượng sản xuất có giảm nhưng vẫn giữ được mức trên 200 tấn, độc chiếm vị trí cao nhất. Được mệnh danh là Kuwan Viên ngọc quý trong vịnh là một nước nhỏ diện tích chỉ có 178 ngàn km2 nhưng dầu khí sản xuất hàng năm trên 100 triệu tấn. Riêng các nước nhỏ ven bờ vịnh như khối Ả Rập thống nhất, Qatar, Bahrain, Oman… trước đó bắt dầu khai thác dầu khí, người dân nơi đây sống dựa vào nghề đánh cá, chăn thả, đãi ngọc, hầu như không có ngành công nghiệp hiện đại nào, hiện nay đã trở thành những nước sản xuất và xuất khẩu dầu khí quan trọng trên thế giới.

 bờ vịnh Ba Tư


      Dầu khí đã đem đến cho các quốc gia ven vịnh Ba Tư một nguồn lợi rất lớn, đã làm cho ảo thị trong sa mạc biến thành sự thật. Ngày nay, trên mảnh đất vốn hoang vắng trước kia này, trên sa mạc không phải là những con lạc đà loạng choạng nữa mà là những chiếc xe con tốc độ, những tòa nhà cao tầng hiện đại đã thay thế cho những căn liều lụp xụp;trên sa mạc không phải là những giếng nước của dân du mục nữa mà là những giếng dầu cao vút tầng mây. Thu nhập quốc dân bình quân đầu người vượt xa các nước công nghiệp phát triển phương Tây. Những tín đồ Hồi giáo trongthành thường nói: “Cám tạ Chân chu (vị thần duy nhất mà đạo Ixlam thờ phụng) đã ban cho chúng tôi vàng đen dưới đất”.


Đọc thêm tại:

Thiên nhiên và thành phố ở trên đảo Jawa

        Đảo Jawa là vùng mưa sấm nhiều nhất trên thế giới, bình quân hàng năm có 220 ngày mưa sấm. Ớ phía tây đảo, nơi có thành phố núi, nhiều cây cối, hằng năm có đến 322 ngày mưa, hầu như ngày nào cũng mưa, do đó có tên là “Kinh đô mưa” hàng năm có hơn 1.400 cơn mưa, trung bình mỗi ngày mưa 3-4 cơn, lượng nước cao 4.600mm. Mưa không những làm cho khi hậu mát mẻ, tuy nằm ở nam vĩ tuyến 6 độ 36 phút, gần đường xích đạo, song khí hậu thường xuyên ở 25,4°c, mà sấm chớp còn là “chất tẩy của khí quyển”, một phần khí oxy trong bầu khí quyển bị sấm chớp biên thành khí oxy mùi có đặt trưng khử trùng, khử mùi và tẩy màu, làm cho bầu trời sau cơn mưa trở nên trong xanh mát mẻ, rất dễ chịu, cứ đến mùa hè, nơi đây là thánh địa nghỉ hè.

        Jawa nhiều cây côi.Vườn cây ở đây có lịch sử lâu đời, nhiều chủng loại nổi tiếng trên thế giới, gồm có hơn 130 ngàn loại cây trồng, viện cây giống ở đây đã thu thập được hơn 500 ngàn loại tiêu bản cây trồng.Vườn cây này chia ra làm nhiều khu vực như: Khu đầm sen, khu rừng cọ, khu cây dây leo, khu rừng tre trúc, khu rừng mây, khu hoa lan, khu cây kiểng xương rồng bà,v.v… Mỗi khu cây trồng đó đều có treo bảng tên cây rõ ràng. Ởđây có thể tìm thấy nhiều loại cây, loại hoa quý hiếm nổi tiếng của vùng nhiệt đới, làm hài lòng các dukháchvì nghe tiếng mến mộ mà đến đây. Loại lan đặc sản của Indonesia có cọng cao từ 3-5m, mỗi cây ra 70-80 hoa, đường kính của hoa đến 15cm, thơm nức, được gọi là “hoa lan Hoàng hậu”. Sen trong đầm là loại sen lá to như cái chậu lớn, đường kính 2,5m, em nhỏ ngồi lên không bị chìm.

đảo Jawa


      Đảo Jawa không những có phong cảnh đẹp mà còn là một trung tâm chính trị, kinh tế và vàn hóa của cả nước Indonesia, được gọi là “Đảo nộ”  hay “Tỉnh nội”. Ba thành phố lớn nhất nước là Jakarta, Bangdung và Surabaja đều nằm trên đảo này, Thủđô Jakarta nằm về phía tây-bắc đảo này, gồm hơn 9.250.000 dân, là một thành phố lớn nhất ơ Đông Nam A, có tên cũ là Batavia, có nghĩa là “Rừng dừa xanh tốt”, thường gọi là “Thành phố rừng dừa”. Rừng dừa bao quanh thành phố, lá dừa đong đưa theo chiều gió, một thảm màu xanh rì, muôn hoa đua nở, tạo thành một vườn hoa lớn tuyệt đẹp. Từ trước đến nay, Jakarta luôn là một trung tâm kinh tế và đầu mối giao thông thủy bộ. Jakarta còn là chiếc cầu quan trọng nối liền châu Á với châu Đại Dương, tàu thuyền qua lại thường xuyên cập bến nơi đây để tu sứa.

      Sân bay Zhenkalan ơ phía đông ngoại ô Jakarta là trạm trung chuyển quan trọng cưa tuyến hàng không giữa châu Âu và châu Đại Dương. Thành phố Jakarta chia làm hai khu thành cũ và thành mới. Khu thành cũ nằm trên eo biển phía bắc, ở đây có các di tích xưa như pháo đài, nhà thờ… , trung tâm thương mại, ngân hàng, các cơ quan lưu thông tiền tệ đều nằm ơ khu thành cũ. Khu thành mới nằm về phía nam thành phố, là trung tâm hành chính, nhiều nhà máy, xí nghiệp vàcác công viên, khu vui chơi hiện đại, khu nhà ơ đều tập trung ơ đây. Khu thành mới và khu thành cũ vốn cách nhau 4km, nhưng nay đã mở rộng nối liền nhau lại. Vùng ven thành phố Jakarta đã mọc lên nhiều đô thị vệ tinh.


Đọc thêm tại:

Đảo Jawa – “Trái tim của Indonesia”.

      Trên mặt hiển xanh biếc về phía tây Thái Bình Dương có một quần (lảo xanh nằm giữa vòng san hô bạt ngàn như một chuỗi kim cương lấp lánh, phân bố dọc hai bên đường xích đạo. Đất nước quần đảo lớn nhất thế giới-Indonesia-nằm rải rác trên các hòn đảo ấy. Trục Nam-Bắc của quần đảo này rộng khoảng 1.900km, trục Đông-Tây dài hơn 5.100km. Diện tích rộng 108.460.000 km2. Dân số 108 triệu người. Người ta gọi Indonesia là đất nghìn đảo, sự thật không phải con số 1.000 mà là 13.667 hòn đảo, tuy nhiên hầu hết các đảo đều không có người ở, chỉ có trên 900 đảo là có dân cư sinh sống, trong đó, đảo Jawa là một hòn đảo giàu có và quan trọng bật nhất trong vạn đảo Indonesia.

      Đảo Jawa nằm giữa hai đảo Sumatra và Bali, chiều Đông- Tây dài 970 km, chiều Nam-Bắc rộng 95-160 km, diện tích 1.260.000 km2, chỉ chiếm khoảng 7% diện tích cả nước. Dân số gần 100 triệu người, chiếm đến 60% dân số cả nước, kinh tế phát triển,văn hóa nhân văn rực rỡ, tập trung và tiêu biểu. Ba thành phốlớn nhất Indonesia là Jakarta, Bandung và Surabaja đều nằm trên đảo này, từ xưa đến nay luôn luôn là trung tâm của cả nước. Vì thế nên gọi Jawa là “Trái tim của Indonesia”.

Đảo Jawa



        Đảo Jawa năm song song với đường xích đạo, xoay quanh một rừng dừa xanh mượt, nhiều cảnh quan thiến nhiên xinh đẹp lạ mắt, khiến mọi người thích thú khen ngợi là kỳ quan hiếm có. Trên đảo có ba cái nhiều : một là nhiều núi, Indonesia là một trong những nước có nhiều núi lứa nhất, đảo Jawa lại là hòn đảo có nhiều núi lửa nhát Indonesia và hiện có đến 20 núi lửa đang hoạt động.

        Trong lòng đất của đảo như đang còn ngọn lứa bốc cháy rừng rực như sắp sửa phun lên mặt đất vào bất cứ lúc nào. Núi lửa nổi tiếng nhất là núi lửa mang tên “Thuyền úp”, vì miệng núi lứa hình tròn như một chiếc thuyền đang lật úp.Núi cao cáchmặt biển 2.075m, trên đinh núi có hai miệng núi lửa, một cái gọi là Mộng Hoàng hậu”, một cái gọi là “Động khí độc. Từ năm 1829 đến nay đã phun lứa mười lần, lần phun lửa gần đây nhất là vào năm 1969. Suốt năm khói xanh bốc lên từ miệng núi lừa, mang theo mùi lưu huỳnh rất đậm đặt, cây cối chung quanh đều chết héo, song trong các khe núi-nơi có núi lửa phun ra- đã trở thành đất màu mỡ phì nhiêu, cây cối xanh tươi. Du khách có thể ngồi xe đến tận miệng núi lứa để xem.


Đọc thêm tại:

Bangkok Kinh đô của chùa Phật

       Bangkok thần bí thường do đường phố, ngõ hẻm ở nội thành. Đâu đâu cũng có thể thấy đền chùa miếu mạo, vì thế Bang kok còn được gọi là “Kinh đô của chùa Phật”. Nước Thái còn có tên gọi là “”Nước Phật áo vàng 95% dân số trong nước theo đạo Phật. Phái nam giới, mỗi người trong cuộc đời của mình phải có một lần xuống tóc đi tu, làm tăng sư, từ vua chúa cho đến thứ dân, ai ai cũng phải trải qua bước đường đó. Thời gian xuống tóc vào chùa nếu ngắn là ba tháng, còn dài là cả cuộc đời mình. Phật giáo đã hòa sâu vào cuộc sống văn hóa-xã hội ở nước Thái.

        Mỗi buổi sáng sớm, các tăng sư mặc áo bào vàng bưng bát nhà chùa đi trên các đường phố, trong tiếng chuông tụng kinh chùa, họ di hành khát hóa kiếp, người đi đường cùng người bái lễ, dâng lên tăng SƯ nhiều thức ăn ngon. Cuối ngày, hoàng hôn buông xuống là lúc các chùa vọng ra tiếng tụng kinh theo âm tiếng Phạn, hòa củng tiếng chuông mõ trầm đều, ngân nga tạo nên một thế giới Phật đường từ bi trang nghiêm. Toàn thành phô Bangkok có hơn 400 ngói đền chùa, kiến trúc đẹp đẽ, lộng lẫy. Trong đó, Ngọc Phật Tự, Kim Phật Tự và Ngọa Phật Tự (chùa Phật nằm) là 3 Quốc bảo của Thái Lan. Ngoài ra, nhiều chùa khác nhu chùa A Lông, chùa Đại Lý, chùa Vân Thạch, chùa Tam Bảo Côngv.v… đều rất nổi tiếng ở Băngkok.

Bangkok


      Ngọc Phật Tự (chùa Phật Bằng ngọc) là ngôi chùa lớn nhất ớ Băngkok, còn có tên là “Vua Quốc tự”, do các khu kiến trúc hợp lại ; Diện Phật Ngọc. Tháp Xương Phạt, Gác Tàng Kinh (gác lầu đế kinh phật), Tháp Vùng v.v… Năm ở mặt phía đông Đại Vương cung, thực ra là một phan của Đại Vương cung này. Trong chùa có rất nhiều tượng Phật cũng rất nhiều điện thờ. Ở đây hầu như là nơi tập trung mọi ưu tú nhất về kiến trúc chùa Phật ở khắp nước Thái.

        Trong đó, điện Phật Ngọc là điện lớn nhất, trang nghiêm bao trùm bầu không khí tôn giáo sâu đậm. Bên ngoài diện có tượng vị thần giữ của cao to hơn người thật. Trên tường dọc theo hành lang là những bức tranh liên hoàn khổ lớn. nhiều màu sắc, miêu tả những câu chuyện truyền thuyết thần thoại của Thái Lan. Trên bệ Phật làm bằng vàng, thờ vị Phật Ngọc tạc bằng một tảng bích ngọc nguyên vẹn, cao 66 cm. Người ta choràng,tượng Phật Ngọc quý giá nhất nước này được tìm thấy bên trong một bứctượng Phật lớn bằng thạch cao bị nứt ra ờ vùng phía bắc nước Thái.



Kiến trúc khu đền Ăngco

       Đền Ăngco ở cách phía nam thành Ăngco 4 km, có tên Ăngco Vát, có nghĩa là “thành tháp”, cũng có tên là “Tiếu Ăngco” Đây là khu di tích được bảo vệ và tu sứa hoàn chỉnh nhất, đặc sắc nhất trong toàn bộ di tích Ăngco. Nghệ thuật kiến trúc ở đây đạt trình độ rất cao, có thểnổi là một kỳ quan kiến trúc. Khu đền vuông vức, chung quanh đền có hai vòng tường bao quanh lớp trong và lớp ngoài rất dày và kiên cố, xây bằng đá tảng vuông màu đỏ. Trục Nam Bắc dài 1.400 m; trục Đông Tây rộng 800m, có5 cửa thành đồ sộ uy nghi.

        Trên gác cứa ở giữa tường phía Tây là 3 ngôi tháp dựng đứng, Hào nước bảo vệ thành dài 1.300-1.500m và rộng 190m chạy bao quanh vòng ngoài tường thành. Điện chính của đền Ăngco xây dài 215m, rộng 187m trên một cái nền cao. Nền cao này có ba tầng nằm chồng lên nhau, ở mỗi tầng, bốnbên đều có hành lang xây bằng đá và gác lầu ở cửa chạm khắc băng đá. Trên thềm tầng hai, ớ bốn gốc đều có tháp nhỏ ở bốn góc. Tháp nhọn ở tầng trên cùng hiện rõ hình dạng năm búp hoa sen, búp sen cao nhất nằm ngay chính giữa, cách mật đất 65m.


khu đền Ăngco


       Nếu đứng từ xa nhìn về đền này, ngay chính diện chỉ nhìn thấy ba ngôi tháp thánh, còn đứng hai bên nhìn vào chỉ nhìn thấy có nầm ngôi tháp, thật là kỳ điệu. Nhanh ngọn bảo tháp này tượng trưng cho trung tâm vũ trụ và nhà của các vị thần trong truyện thần thoại của Ấn giáo và Phật giáo, gọi là “Sơn miếu” (đền miếu trên núi). Các ông vua lúc bấy giờ đều cho xây dựng một ngôi “Sơn miếu” dể làm phần mộ của mình sau khi chết, đền Ăngco chính là một dạng lăng mộ dành riêng cho Suryavarman đệ nhị. Cai dác sắc của toàn khu lăng mộ là những phủ điêu chạm trên hanh lang xây bằng đá, bao quanh bốn bên của mỗi tầng.

        Hành lang phù điêu của tầng cuối cùng dồi 800 m, cao 2m. Nội dung các phù điêu này lấy từ các câu chuyện thần thoại trong sứ thi Ân Độ, khắc họa thật sinh dộng, kỹ xảo thật điêu luyện, là kết tinh của nghệ thuật phùđiêu Cao Miên. Vì vậy, các hành lang được gọi là “Hành lang tranh phù điêu”, tuy thời gian và bão táp đã tàn phá, song đường nét chạm khắc vẫn còn sắc nét, rõ ràng. Ngoài các hành lang, hầu hết các kiến trúc khác điều cổ chạm khắc phù điêu, hình ảnh búp hoa sen nhiều nhất, có hơn mười ngàn cái.

         Ngoài di tích Ăngco ra, tương truyền còn có nhiều cung điện của vương hậu, đồn lũy xưa, tượng đá xưa v.v… do bàn tay phụ nữ làm ra, mỗi một công trình kiến trúc đó đều mang đậm màu sắc xinh đẹp của nền văn hóa Phương Đông. Ngày nay, Ăngco vẫn là biểu tượng của nước Campuchia, hằng năm thu hút rất nhiều du khách và nhà khoa học đến ngoạn cảnh và khảo sát. Angco sánh cùng Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc, Kim Tự Tháp của Ai Cập và tháp Phật Bà La của Indone­sia tạo thành bốn kỳ quan của phương Đông.


Từ khóa tìm kiếm nhiều: vanlytruongthanh, di sản văn hóa thế giới

Di tích Ăngco – đế đô của nước Cao Miên

      Năm 1860, một đoàn khảo cổ học người Pháp đến núi rừng hoang sơ trên đất Campuchia dể khảo sát. Bỗng nhìn thấy trong khu rừng có một cung thành vương giả xây bằng những tảng đá rất lớn. Quy mô của cung thành đồ sộ, kiến trúc của cung thành xinh đẹp. Kết quả khảo sát cho biết cưng thành vương giả này chính là thành Ăng co- đế đô của nước Cao Miên tên gọi cũ của nước Campuchia) từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 15.

      Năm 1432, người Xiêm La (Thái Lan ngây nay; xám lấn Cao Miên, đế đô Cao Miên phải dời về Phnômpênh ở phía Nam, thành Ang co từ đó bị làng quên và hoang phế, lại bị khí háu vùng nhiệt đới bào xới tàn phá. Qua công việc khai quật, tu sửa, phục chế, ngôi thành cổ đã yên nghỉ hàng mấy trám nám trong rừng rậm đã được “hồi sinh” và cuối cùng thành Ang co đã trở thành di chỉ vãn hóa và du lịch nổi tiếng thế giới.

      Di tích Ăngco nằm mạn Bắc hồ Tôngiêsáp của Campuchia, cách thủ đô Phnômpênh khoảng 240 km. Kiến trúc củadi tích này đều dùng đá tảng lớn xây chất lên, tảng đá này bám chặt vào tảng đá khác nhờ có sự kết hợp về hình dạng và trọng lượng của các tảng đá; ngoài ra còn dùng một thứ chất kết dính lấy từ nhựa cây cọ trét lên mặt tiếp xúc của đá để chúng dính chặt vào nhau, ơ Campuchia lúc bấy giờ, theo quan niệm của đạo Bài amôn và đạo Phật, con người phàm tục chỉ được ở nhà cất bằng gỗ và tre nứa, thần thánh tối thượng mới được ở nhà cửa,cung điện xây bằng đá.


Di tích Ăngco


      Vì vậy mà đền chùa bằng đá, bằng tháp, tượng đá… là một đặc trưng lớn rất nổi bật của di tích Ăngco. Có hơn 600 thành quách xây dựng kiểu dáng khác nhau còn lưu lại đến ngày nay, nằm rải rác trên rửng rậm mênh mông trên 45 km, trong đó, quan trọng nhất là di chỉ thành Ăng co, đền Ăngco, Nữ vương cung, cung điện giữa trời cao v.v… Kiến trúc tráng lệ, điêu khắc tinh vi đẹp đẽ ở đây hoàn toàn bằng với bất cứ kiến trúc và điêu khắc cổ xưa tuyêt đẹp nào trên thế giới.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: vanlytruongthanh, lăng mộ của tần thủy hoàng

Khu thương nghiệp sầm uất nhất Tokyo

         Khu thương nghiệp sầm uất nhất Tokyo là con đường kéo dài từ cầu Tokyo ở phía Bắc đến cầu Mới ở phía Nam, dài khoảng 1,5 km. Nhờ có bến tàu và ga xe lứa ở gần nhau nên dễ trở thành một trung tâm thương nghiệp nhộn nhịp, ơ đây, cứa hàng san sát, có những đường phô thưcũng có: ăn mặc, đi lại, tiệc tùng, vui chữi, giải trí v.v… không thiếu một thưgì. Tại đây, một tấc đất là một tấc vàng, giá 1m đất ở đây là 12 triệu yên Nhật, là một trong những nơi có giá đất đắt nhất trên thế giới, 400 năm trước, đây là nơi (lúc tiền nên có tên là “Ngân Tọa”, ngày nay, tên gọi này đồng nghĩa với từ “phồn hoa” của tiếng Nhật.

       Toàn nước Nhật có 400 đường phố mang tên “Ngân Tọa”. Từ tháng năm 1970 về sau, cứ đến ngày chủ nhật hay buổi chiều ngày lễ, người ta treo một tấm biển ghi dòng chữ “Vương quốc của những người di bộ”, có nghĩa là cấm xe cộ di vào đường này. Người ta tha hồ đi chợ và mua hàng. Nhiều tiểu thương và nghệ nhân đổ dồn về đây buôn bán, hành nghề, về đêm cả đoạn đường phố này rực rớ ánh đèn, tiếng người râm ran, đúng là một “thành phố không có đêm”. Gần dây, một vị giáo sư của một trường đại học ở Tokyo dã lập ra một thửa ruộng trồng lúa nước rộng khoảng 63m2 ngay tại hến xe của khu thương mại sầm uất này, ông muốn nhác nhớ mọi người phái có ý thức bảo vệ môi trường sinh thái, thừa ruộng lúa nước đó lại trở thành một kỳ quan nữa ở khu vực này.

Tokyo


        “Thành phố mặt trời “ được coi là tấm bia ký niệm thế kỷ 20 của Nhật, là một danh lam thắng cảnh mới, tiêu biểu một thời cho vẻ đẹp của Tokyo, tọa lạc trên mảnh đất vốn là đầm lầy ở phía Tây Bắc. “Thành phố mặt trời” ở đây là một quần thể kiến trúc siêu cao tầng, làm khu thương mại, chiếm diện tích 60 ngàn m2, kể cả diện tích sứ dụng thì mặt bằng tăng lên gấp 10 lần, tức 600 ngàn m2. nó được coi là “thành phố nhỏ trong thành phố lớn” . Ngôi nhà chính, tức “Ngôi nhà ánh nắng mặt trời” 60 tầng, cao 240 m, diện tích 190 ngàn m2. Ngôi nhà được xây dựng từ những cấu kiện lắp ghép từ trên đến tận dưới, có hơn 3.000 cửa sổ.

        Ban ngày, ánh sáng mặt trời từ bốn phía chiếu vào nhà. Ban đêm, ‘Thành phố ánh sáng mặt trời “ dưới ánh đèn sáng điện giống như “đêm trắng” hấp dẫn lạ thường. Hai bên ngôi nhà chính là tòa nhà 11 tầng làm Trung tâm nhập khẩu quốc tế, Cung văn hóa 12 tầng, nhà hàng Hoàng tứ 37 tầng và hơn 2000 hiệu buôn khác. “Thành phố ánh sáng mặt trời” được xây dựng hoàn toàn hiện dại, mọi việc vận chuyển trong khu “thành” đều được vận chuyển bằng vi tính, từ tầng trệt lên đến tầng cao nhất chỉ mất 35 giây. Trên nóc “Tòa nhà ánh sáng mặt trời” có đặt đài viễn vọng. Bước lên đài viễn vọng trời nắng ráo có thể nhìn thấy toàn cảnh Tokyo và dáng núi Phú Sĩ. 



Từ khóa tìm kiếm nhiều: lăng tần thủy hoàng, kì quan thế giới

Tokyo thủ đô sôi động của Nhật Bản

        Năm 1808,nước Nhật thực hiện “Minh Trị Duy Tân”, Thiên Hoàng đổi tôn “Giang hộ thành” thành “Đông Kinh”, qua năm sau, dời thủ đô từ Kinh Đô về đây.

       “Đông Kinh” dần dần trở thành thủ đô nước Nhật. Việc làm đó là nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế tư bản, đẩy mạnh công cuộc khai phá vùng phía Đông . Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nước Nhật bước vào thời kỳ phát triển kinh tế nhanh chóng, thành phố Đông Kinh- Tokyo phát triển nhanh chưa từng thấy. Đến năm 1962, số dân ở Tokyo đã lên đến mười triệu người, trở thành một trong những đô thị phồn hoa nhất thế giới. Thành phố Tokyo ngày nay nối liền với các vùng chung quanh, tạo thành một cái “vòng tròn thu đô” bao la, trên diện tích hơn 36.000 km2, với hơn ba mươi chín triệu dân.Vùng ven thủ đô Tokyo chiếm 591 km2, với số dân tám triệu ba trăm ngàn người, Để tưởng nhớ công lao to lớn của người đặt nền móng đầu tiên cho thành Đông Kinh, người ta đã dựng bức tượng đồng người võ sĩ đã xây “Giang hộ thành” trước tòa đô chính thành phố Tokyo để người đời sau chiêm ngưỡng tưởng niệm.

Tokyo


         Từ khi Tokyo trở thành thủ đô, đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của Nhật Bản đã có nhiều biến đổi to lớn. Tokyo là thành phố công thương nghiệp lớn nhất của nước Nhật, liên kết với Yokohama thành “Khu công viên Tokyo-Yokomaha”, không những là khu công nghiệp lớn nhất Nhật Bản mà còn là khucông nghiệp có tên tuổi hàng đầu thế giới. Theo thống kê, hơn 10% nhà máy và hơn phân nửa công ty lớn của Nhật Bản đều nằm ở đây. Tokyo còn là trung tâm chính lưu thông tiền tệ trên thế giới, tập trung rất nhiều ngân hàng lớn trong và ngoài nước, là một trường giao dịch ngoại hối và thị trường chứng khoán nối tiếng trên thế giới. Tokyo còn là đầu mối giao thông lớn nhất nước Nhật, có mạng lưới đường sắt cao tốc nối liền với các nơi, đường giao thông trong thành phố chằng chịt như màng nhện, chia thành tầng tầng lớp lớp, tầu điện ngầm đảm bảo hơn một nửa khối lượng vận chuyển hành khách. Cảng Tokyo là cảng lớn thứ tư của Nhật, mồi năm xuất và nhập 40 triệu tấn hàng, có quan hệ buôn bán với hơn 70 quốc gia và khu vực. Tokyo có 4 sân bay, 2 sân bay quốc tế rất hiện đại và nổi tiếng. Trong thành phố có hơn 190 trường đại học chuyên khoa và viện nghiên cứu, có nhiều thư viện và viện bảo tàng, các công trình văn hóa đều đứng hàng đầu trong cả nước. Tokyo xứng đáng được coi là “trái tim của nước Nhật”.

         Tuy nhiên, trong quá khứ, Tokyo cũng đã từng trải qua những bước thăng trầm, đã nhiều lần động đất và chịu bao tai họa chiến tranh, nhất là trận động đất năm 1923 và cuộc đại chiến thế giới lần thư hai làm cho Tokyo bị thiệt hại rất nặng nề. Nhưng người dân Tokyo vẫn kiên trì tiếp tục xây dựng nhà cứa, vườn tược, phố phường. Qua nhiều năm lao động vất vả, cật lực, người dân Tokyo đã xây dựng thành phố mình thành một đô thị lớn và hiện đại trên thế giới, nó đẹp và hiện đại ngang hàng với các thành phố, thu đô nổi tiếng như New York, Paris, London v.v…



Từ khóa tìm kiếm nhiều: van ly truong thanh trung quoc, kì quan thế giới

Ngọn núi thiêng – Phú Sĩ

       Núi Phú sĩ thật đẹp, tượng trưng cho sự tốt lành. Núi Phú Sĩ uy nghi, cứng cỏi, tượng trưng cho tinh thản kiên cường bất khuất của nhân dân Nhật Bản. Từ xưa đến nay, người Nhật coi núi Phú Sĩ là” Ngọn núi thiêng”, “Ngọn núi thánh” bảo vệ Nhật Bản, nó luôn được người Nhật ca ngợi và suy tôn. Núi Phú Sĩ “như chiếc quạt bằng ngọc treo ngược trên bầu trời biển Đông, tuyết trắng trên núi Phú Sĩ phản chiếu ánh sáng rực rỡ của mặt trời”.

      Leo lên đỉnh núi Phú Sĩ trở thành một nghĩa cử lớn lao vá cao thượng nên người dân Nhật Bản muốn một lần thực hiện trong đời mình. Từ ngày 1 tháng bảy đến 31 tháng tám hàng năm, băng trên đỉnh núi tan dần, là lúc núi Phú Sĩ chào đón du khách thập phương, mở màn cho mùa leo núi kéo dãi trong hai. Từ khắp các ngả đường dẫn vào núi Phú Sĩ đều có tổ chức “nghi lễ leo núi” rất long trọng. Vận động viên leo núi và du khách khắp nơi trên thế giới cùng hòa vào dòng người đi vào núi.

Phú Sĩ


      Người ta nói chung, đến Tokyo mà chưa đến núi Phú Sĩ thì coi như chúa đến đất đông kinh vậy. Từ chân núi leo đến đỉnh phải leo mất gần trọn một ngày cật lực và dầy khó khán. Trên bước dường leo núi, lộng gió, thời tiết, diễn ra thất thường, lúc thì gió êm trời dẹp, lúc thì mưa to gió lớn, nhiệt độ chênh lệch là 10 độ, nhưng những người leo núi luôn háo hức, háng hái, hứng thú không biết mệt, họ mang trong lòng khí phách anh húng “Không lên đỉnh núi không phái là hào kiệt”, trong đoàn người leo núi đó có cả người lớn tuổi, phụ nữ và trẻ em.

       Có nhiều người thích leo núi vào ban đêm, mồi người cầm một chiếc đèn pin, nhiều đốm sáng lấp lóe như sao trên trời, kéo thành một hàng dài nhìn từ xa giống như một con rồng lửa uốn lượn vươn lên trời cao, thật đẹp mắt. Họ leo núi ban đêm là cốt kịp lên đỉnh núi trước lúc bình minh đế đón ánh mặt trời lúc ban mai, đó là ngày lễ leo núi truyền thông Phú Sĩ của người Nhật. Lên đến đỉnh núi, nhiều người thích đi một vòng chung quanh miệng núi lứa, họ thường nói đùa là “đi dạo quanh vành miệng một cái chén khổng lồ”.



Phú Sĩ – động đất và núi lửa

     Ở Nhật Bản thường nghe nói đến “núi lửa và động đất”.Toàn nước Nhật có hơn 200 núi lửa, trong đó có một phần ba núi lứa đang hoạt động. Động đất xảy ra thường xuyên, hầu như mỗi ngày đều có chân dộng, cứ vài năm thì xảy ra một trận động đấtlớn. Vì núi lửa Phun lên hung dữ và lạ mất nên người ta gọi núi lửa là “núi thẩn”, “núi thánh”, thậm chí họcoi đó là “lửa thần” đem đến nhiều may mắn. Vì vậy, núi lứa Phú Sĩ cao nhát và nòi tiếng nhất tất nhiên được người Nhặt coi là biểu tượng của nước Nhật.

     Nhìn bên ngoài, núi Phú sĩ giống như một núi lửa đã tắt, đứng yên hiền hòa,song chính quả núi lửa này đã từng phun hàng trăm lần. Từ năm 781, có tài liệu ghi chép đến nay, núi Phu Sĩ đã phun 18 lần, lần phun gần nhất là năm 1707, tro bụi bay đến bám đầy trên nóc nhà ngoại thành Tokyo. Sau lần phun lửa đó núi Phú Sĩ đã di vào giấc ngủ cho đến ngày nay.

Phú Sĩ


     Gần đây các nhà khoa học Nhật Bản dã dùng kỷ thuật và thiết bị hiện đại nhất để thăm dò, nghiên cứu núi Phu Sĩ, cho biết rằng, hằng năm, núi Phú Sĩ có 10 lần động đất và phun lứa nhỏ, nằm sâu trong lòng đất, không phun lứa ra khỏi mặt đất, nhưng ở nhiều chỗ trên thân núi vẫn thường phun hơi nóng từ bên trong ra ngoài. Mọi dấu hiệu chứng tỏ núi Phú Sĩ có thể phun lửa trở lại bất kỳ lúc nào, tỏ rõ “uy quyền thản thánh” của nó.

     Núi Phú Sĩ cũng là một trong những núi lửa nổi tiếng trên thế giới. Các nơi còn nhiều núi lửa cao hơn núi Phú Sĩ, chúng phun lửa ngay trên thận núi cao. Núi Phú Sĩ khác hơn, miệng núi lứa là trung tâm, nham thạch dần dần chồng chất cao lên thành đỉnh núi cao. Dòng chảy của nham thạch, tro và cát bụi núi lửa chồng chất lại ngày một cao lên- Đường kính của chân núi gần 40 km, được coi là một trong những núi lứa lớn nhất thế giới.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: lang tan thuy hoang, ki quan the gioi

Quang cảnh núi Phú Sĩ

     Núi Phú Sĩ nằm trên bờ biển Đông, phía Nam đảo Benzhou của Nhật Bản, núi kéo dài trên hai huyện Jinggang và Sangli, phía Đông cách thủ đô Tokyo 80 km. Núi Phú Sĩ là một hòn núi có hình chóp bốn cạnh rất đều đặn, hoàn chỉnh và điển hình, cao 3.776 m, chiếm diện tích 90,76 km2. Trên đính núi tuyết dòng trắng xóa, tám ngọn chung quanh là: Ngọn Kiếm, ngọn Bạch Sơn, ngọn Cứu Tu Chí, ngọn Đại Nhật, ngọn Y Đậu, ngọn Thành Tựu, ngọn Câu và ngọn Tam, như tám cánh hoa nở hướng lên trời cao, do đó có tên gọi là “Tám cánh Phù Dung”.

    Đường kính miệng núi lứa gần 700 m, sâu khoảng 220 m, hình dáng giống như cái bát của nhà sư, vì vậy người ta gọi là “Ngự bát”. Trên đỉnh núi có hai ngôi đền thờ thần. Chung quanh trồng hơn 2.000 giống cây, giống như một khu vườn bách thảo, ơ phía Bắc chân núi Phú Sĩ có 5 cái hồ nước trong lóng lánh, giống như những viên ngọc khảm vào thân núi, năm hồ nổi tiếng đó là: hồ Bản Tây, hồ Tịnh Tiến, hồ Tây, hồ Cứa Sông và hồ Sơn Trung. Hồ Sơn Trung( hồ trong núi) lớn nhất, chiếm diện tích 6,75 km2.

núi Phú Sĩ


   Thôn làng ở phía Đông Nam hồ này có tám cái ao đầm ăn thông với hồ Sơn Trung. Mặt nước hồ Cửa Sông phẳng lặng, in bóng đỉnh núi Phú Sĩ, được coi là một cảnh đẹp. về phía Nam chân núi Phú Sĩ là một vùng đồng bàng rộng lớn, có hai thác nước rất nối tiếng là thác Bạch Hệ và thác Am Chỉ. Chung quanh đó còn có công viên, lâm viên để khách dạo cảnh và săn bắn, có cả nhà bảo tàng v.v..

    Núi Phú Sĩ không những hùng vĩ tráng lệ, mà còn muôn hình muôn vẻ, mùa xuân hoa lá xanh tươi, mùa hè nước chảy rì rào, mùa thu lá đỏ phủ khắp núi đồi, mùa đông băng tuyết trắng xóa. Có khi, trong cùng một ngày, trời nắng và trời râm đều dẫn đến sự thay đổi của núi. Khi thì như có tấm màng the mỏng che phủ lên thân núi, đinh núi lúc mờ lúc hiện, như phiêu diêu lơ lửng, khi thì thân núi hiện ra lồ lộ, đứng cao sừng sững, vời vợi, bày ra trước mắt mọi người.


Câu chuyện về Núi Phú Sĩ

    Câu chuyện dân gian “Vật biết nói trong ống tre” lưu truyền rất rộng rãi của Nhật Bản, kể rằng: Ngày xưa có một ông lão đi vào rừng sâu chặt tre. Ông chặt đến một đoạn tre có màu vàng óng ánh và thấy bên trong ống tre có một bé gái mình dài ba tấc. Ông lão đem đứa bé gái về nhà nuôi. Năm tháng trôi qua, bé gái lớn (lan và trở thành một cò gái xinh đẹp kiều diễm. Nhiều chàng trai (lem lòng thương yêu và cầu hôn, nhưng cô đều từ chối.

    Việc này hay đến tai vua, vua cùng muốn chiếm lây cô gái xinh đẹp này, xong cũng bị cô từ chối. Cô gái ấy vốn là một tiên nữ trên cung, nàng mắc tội nên bị đày xuống trần gian chịu tội . Mãn hạn rồi nàng được trởvề trời. Để trả ơn nuôi dưỡng của ông lão, trước khi từ giã ông để bay về trời, nàng gửi lại biếu ông một bọc thuốc “trường sinh bất tử”. Còn vua thì không lấy được nàng, bèn nổi trận lôi đình, sai người đi cướp lây bọc thuốc ấy, đem đặt lên một đỉnh núi cao gần trời nhất rồi đốt bọc thuốc ấy, đá trên đỉnh núi bị dốt nóng biến thành màu đỏ rực như lửa, quả núi ấy là núi Phú Sĩ.

Núi Phú Sĩ


      Trong truyện dân gian Nhật Bản còn có câu chuyện Từ Phúc đến núi Phú Sĩ tìm thuốc “trường sinh bất tử”, kể rằng: “năm ấy, Vua Tần Thủy Hoàng của Trung Quốc sai Từ Phúc dẫn tiếu đồng nam và 500 tiểu đồng nứ đi đến biển Đông tìm thuốc. Họ vâng lệnh nhà vua,đi thuyền về hướng Đông, đến núi Phú Sĩ, tìm thấy một loại trái cây gọi là quả “binh lê”, quả này ăn vào có tác dụng kéo dài tuổi thọ .

    Từ Phúc vui mừng khôn xiết, định hái nhặt cho nhiều để đem về dâng cho Tần Thủy Hoàng, nao ngờ Tần Thúy Hoàng đã chết trước rồi, vì thế Từ Phúc tự ăn hót số quá “trường sinh bất tứ “đó. Từ Phúc chết và biến thành một con hạc, suốt ngày hạc bay lượn vòng trên đỉnh núi Phú Sĩ . Hối hạc cũng chết, dân làng nơi đây xây cho hạc một cái mộ tượng trưng, thờ cúng hồn linh của hạc. Đến ngày nay, người ta vẫn gọi nơi ấy là “Hạc đô” (Kinh đô của chim Hạc).



Toàn cảnh núi Kim Cương

      Kim Cương biển nằm dọc theo bờ biển, cảnh đẹp ở đây chính là mặt biển. Nhìn qua làn sương mờ là mặt biển xanh mênh mông, lớp lớp sóng (lồi, sóng xô vào đá, đá chồng chất cao lên trong sóng nước. Cánh núi Kim Cương đâu đâu cũng có nhưng nhiều người nhất là cứa sông Tam Nhật, ngọn núi Tập Tiên, dài thác Cứu Long, đài Thiên Tiên v.v… Cứa sông Tam Nhật được coi là một trong “Tám cánh Quan đông”, là một cái hồ nước ngọt hình bầu dục, bốn phía có 36 ngọn núi bao quanh, nước hồ trong xanh, đá dựng cao ngất và những hòn đáo nhỏ phú kín màu xanh nằm trên mặt hồ.

Bước lên bờ Bồng Lai ở bên bờ hồ, bạn sẽ nhìn thấy hết toàn cảnh của cửa sôngTam Nhật. Ngọn núi Tập Tiên là ngọn núi linh thiêng trong dãy núi Kim Cương. Theo truyền thuyết, dây là ngọn núi linh thiêng, huyền bí. Ngày xưa, nơi đây đãtừng xảy ra cuộc đấu giữa 53 vị Phật với 9 con rồng. Rồng bị đánh bại bèn vội vàng tìm chỗ chạy trốn. Rồng chui luồn vào trong quả núi, khoét thành một cái động kỳ lạ, rồi cứ thế mà ngọc từ bên ngoài chảy mãi vào núi, vì thế mà động này có tên là Động Ngọc Chảy, ở trong động có hai cái đầm nước trong vắt như hai hạt trần châu lấp lánh dính liền nhau, nên gọi là đầm Liên Châu.


núi Tập Tiên


Ra khỏi động Ngọc Chảy không xa, bạn trèo lên tháp gác Cứu Long, nhìn thấy dải cát Cứu Long và vực sâu Cứu Long nằm ngay trước mặt trên độ cao 70 m. Thác Cửu Long là một trong ba dòng thác lớn của Triều Tiên, vách núi cao hơn trăm mét, dòng nước như từ giữa trời cao chảy tràn qua đá, đổ xuống khe sâu, tung bọt nước trắng xóa, bắn ra muôn vàn giọt nước lóng lánh như những viên ngọc, phun hơi nước bôn phía như làn khói hay lớp sương mù. Đứng trên tháp cao nhìn xuống, thấy ngọn núi trùng trùng, nhấp nhô, cao ngất, nước cuồn cuộn chảy, gào thét vang rền. Người ta còn ghi lại nhiều câu thơ ca ngợi cánh đẹp nơi đây:Dải lụa trăng kéo dài nghìn trượng Hạt kim cương chứa dầy vạn hộc.

Gần đó còn có tám đầm nước nằm nối tiếp nhau như tám hạt ngọc xanh trong xỏ trong một sợi dây. Lưu truyền rằng ngày xưa có tám nàng tiên từ trên trời thường hay xu ông đây tắm. Câu chuyện đẹp về “Tám tiên nữở núi Kim Cương” vẫn còn truyền tụng đến ngày nay.

Cảnh núi Kim Cương thay đối theo bốn mùa, vì thế mà núi có nhiều tên gọi khác nhau. Mùa xuân, dãy núi như nàng tiên nữ yểu điệu thướt tha, trăm hoa xuân đua nở càng tô điểm chothêm rực rỡ, ánh mặt trời chiếu vào đá núi lấp lánh toa sáng như đá kim cương, người ta gọi là “Núi Kim Cương”. Sang mùa hè, dường nét, màu sắc hiện rõ, nhìn dòng suối thác cuộn chảy, không khí mát lành, lòng thấy sảng khoái, đến như thần tiên trên trời cũng say cảnh đẹp nơi dây, muốn xuống trần gian nghi mát, do đó mà núi này còn có tên là núi Bồng Lai.

Đến mùa thu, cây phong lá đỏ đọng giọt sương trắng, nhuộm thành một màu đỏ phủ khắp dãy núi, vì vậy còn gọi là núi Phong Nhạc (núi Đồi Phong).Về mùa đông, một màu băng tuyết trắng xóa bao trùm lấy dinh và vách núi, núi Kim Cương trứ thành một thứ “Lầu châu gác ngọc” và vì thế được gọi là núi Tuyết Phong (núi Đỉnh Tuyết).



Từ khóa tìm kiếm nhiều: vua tần thủy hoàng, kỳ quan thế giới

Non nước Trung Hoa

Dưới chân núi Vạn Thọ, từ cống vào mang tên “Vân Huy Ngọc Vũ” (Vòm trời trong xanh mây rực rỡ) đi trên đinh núi phải qua tầng tầng lớp lớp để đến Phật Hương Các và Trí Tuệ Hải. Phật Hương Các(Gác Phật Hương) xây tám mặt, ba tầng và bốn lớp mái, cao 41m, là công trình kiến trúc chính trong Di Hòa Viên, được xây kiểu “Lầu hoàng hạc”. Hồ Côn Minh ở về phần đất phía Nam công viên Di Hòa, sen mọc gần khắp mặt hồ.

Hòn Nam Hồ, còn gọi là Hòn Bồng Lai nổi lên giữa mặt hồ sóng vỗ lăn tăn. Kiến trúc cao nhất trên hòn đảo nhỏ này là một ngôi thự, gọi là”Hàm Hư Đường”. Ngôi thự này hướng về điện Bài Vân trên núi An Thọ. Chiếc cầu 17 lỗ nổi tiếng dã nối liền hòn đảo nhỏ này với bờ đất liền ơ phía Đông. Đứng ở một trong hai đầu cầu phía bên nào cũng được nhìn vào thân cầu, bạn sẽ thấy lỗ cầu thư chín nằm ngay chính giữa thân cầu. Số 9 là một thiên số (số trời) cao nhất, không còn cao hơn nửa.

núi Vạn Thọ


Hai bên thành cầu chạm khắc 544 con sư tử đá với hình dáng hoàn toàn khác nhau. Bên bờ phía Đông có một tượng trâu nằm bằng đồng, bên ngoài vốn được mạ bằng vàng, nên gọi là “Kim Ngưu”(Trâu vàng), trèn lưng trâu có đuc 80 chữ bằng thề chư “triện”.Khi liên quân tám nước chiếm đóng Bắc Kinh, họ đã cạo lây hết số vàng bên ngoài tượng trâu. Bên chân núi Vạn Thọ và bên bờ hô Côn.

Thượng Uyển của vua hay Quốc Tứ Giám-học phủ cao nhất thời xưa củaTrung Quốc- và rất nhiều các thành, cửa thành, cổng chùa, cổng tháp, cống cung diện. Ngoại thành Bắc Kinh còn có”Lư Câu Hiểu Nguyệt” (Trăng sớm trên dòng kênh Lư), núi Bát Đạt chắn của Trường Thành xưa, Phòng Sơn là thánh địa của Phật giáo v.v… được coi là “Tám cảnh của Yên Kinh”. Thành cố đâu đâu cùng có di tích, danh lam thắng cảnh.

Sau ngày giải phóng, ngành công nghiệp gang thép, hóa dầu, cơ giới, điện lực, diện tử, dệt, in ấn v.v… của Bắc Kinh phát triền nhanh chóng, đả trở thành một trong những thành phố công nghiệp tổng hợp lớn nhất của cả nước Trung Quốc. Bắc Kinh còn là đầu mối giao thông và trung tâm vãn hóa, khoa học lớn nhất của cả nước Trung Hoa.

Bắc Kinh có hàng chục Viện nghiên cứu khoa học và nhiều trường đại học như Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa v.v… Bộ mặt thành phố xưa dã thay đổi nhanh chóng và lớn lao. Xe cộ nối đuôi nhau chạy nườm nượp trên các con đường rộng lớn thênh thang hay trên những chiếc cầu cao bề thế. Nhiều ngôi nhà cao xinh dẹp mọc lên hàng hàng lớp lớp, cao ngất uy nghi. Cố đô ngàn năm đã mang bộ mặt của thời đại mới, nét xưa cổ kính hòa với vẻ đẹp mới rực rỡ, đang ngày một thay da đổi thịt, trẻ trung đầy sức sống.



Khám phá Trung Hoa

Qua khỏi cầu “Kim Thúy” hai bên chạm trổ bằng đá cẩm thạch, ờ đầu quảng trường Thiên An Môn là bước ngay vào cổng Thiên An, đi vào Cố cung. Cố cung còn có tên là Tứ Cấm Thành, là Hoàng cung của hai triều đại Minh và Thanh. Cố cung tọa lạc trên diện tích 720.000 m2, có hơn 9.000 căn phòng, diện tích xây dựng khoảng 150.000 m2, chung quanh có tường bao cao hơn 10 mét, bên ngoài tường thành có hào bao quanh bảo vệ thành, rộng hơn 50 m. Có 4 cứa thành: phía Nam là Ngọ Môn, phía Bắc là Thần Vũ Món, phía Dòng là Đông Hoa Môn, phía Tây là Tây Hoa Môn.

Bố cục kiến trúc của cung điện này phân chia thành hai phần chính: ngoại triều và nội đình. Trung tâm của ngoại triều là 3 điện lớn: diện Thái Hòa, điện Trung Hòa và điện Bảo Hòa, hai bên lá điện Văn Hoa và điện Vũ Anh. Đây là nơi chính yếu khi vua thượng triều và chiêu kiến quân thần. Nội đình gồm có cung Càn Thanh, diện Giao Thái, cung Khôn Ninh, điện Dưỡng Tâm, điện Phụng Tiên và 6 cung khác ở phía Đông và phía Tây v.v… là nơi vua xem xét, cắt dặt công việc triều chính hàng ngày, còn là nơi ớ của Hoảng hậu, cung tần, cung phi, hoàng tư, công chúa.




Cuốicùng là Ngự hoa viên (vườn hoa trong cung vua). Nhà cứa, cung đều lợp bằng ngói ống lưu li xanh mướt,trông thật hào hoa tráng lệ. Lần lượt trái qua 24 đời vua ngự trị ở nơi đây. Trong cung chứa đầy văn vật quý báu. Từ năm 1925 được dùng làm Viện báo tàng Cố cung.

Di Hòa viên (công viên Di Hòa) ở ngoại ô phía Tây thành phô Bắc Kinh là một kiệt tác về nghệ thuật xây hoa viên củaTrung Quốc, nó có tên là công viên Bảo Tàng. Di Hòa Viên vốn xưa kia là hoa viên đời nhà Thanh, nơi vua đến nghỉ ngơi, du ngoạn. Sau đó bị liên quân Anh Pháp phá hủy.

Từ Hy Thái Hậu đã chuyển một trăm ngàn lượng bạc từ ngân sách chi phí hải quân sang xây lại hoa viên này vào năm 1888.Di Hòa Viên chiếm diện tích 340.000 m2, gồm hai phần chính là núi Vạn Thọ và hồ Côn Minh. Núi Vạn Thọ cao hơn mặt biển 109 m, tên cũ là núi Ưng. Vua Càn Long nhân ngày chúc thọ mẹ 60 tuổi, bèn đối tên núi Ưng thành núi Vạn Thọ. Phía trước núi Vạn Thọ là toàn bộ cảnh đẹp của Di Hòa Viên hiện ra trước mắt bạn. 

Đọc thêm tại: http://timhieukiquan.blogspot.com/2015/07/du-ngoan-nui-kim-cuong.html


Du ngoạn núi Kim Cương

Văn hào Quách Mạt Nhược khi du ngoạn núi Kim Cương của Triều Tiên đã tức cảnh viết nên nhưng câu thơ đẹp ca ngợi núi này:

Đá trắng lắng khe sâu Bóng cây quyện lòng ai.

Nước bạc xuôi Cửu Châu Tiếng suối reo êm tai.

Quan Am ra suối tắm Cầu dây treo lửng lơ.

Ngọc nữ ngưng chải đầu Như thể đi trong mơ.

Người Triều Tiên tự hào về đất nước mình là “Giang sơn gấm vóc ba nghìn dặm”. Đất nước dài và hẹp, cao nguyên và vùng núi chiếm hết ba phần tư diện tích cả nước. Núi non thật đẹp, danh lam thắng cảnh muôn màu muôn vẻ, như một cuốn tranh từ từ mở ra trước mắt bạn. Núi Kim Cương được mệnh danh là “Triều Tiên đệ nhất sơn” (núi đẹp bật nhất của Triều Tiên) chính là hình ảnh đẹp nhất trong cuốntranh ấy.

 núi Kim Cương


Núi Kim Cương nằm kéo dài ở phần đầu phía Bắc dãy núi Thái Bạch trên bờ biển Đông của bán đảo Triều Tiên, chiều dài hướng Nam Bắc 60 km, chiều rộng Đông Tây 40 km, chiếm một diện tích rộng lớn trên 2.000 km2. Đá núi là loại đá hoa cương khối to và rất rắn chắc, hiện lên thành hình khối trụ to lớn, xếp đứng thắng ngay ngắn, tạo nên nét nguy nga lạ mắt, khe núi sâu thám tịch mịch. Trèo lên đỉnh núi chính cao 1.638 m so với mặt biến, bạn có thế phóng tầm mắt xa bốn phương đỉnh núi nhấp nhô trùng điệp dưới ánh sáng mặt trời, chúng hiện lên như những viên kim cương lấp lánh, vì thế mà có tên là Kim Cương. Trên núi có nhiều suối nước lượn quanh, hình đá kỳ lạ, hang đá.

Ngọn núi Quan Âm đứng sừng sững lấp lánh như ngục; ngọn inh Trụ Da mang hình ảnh những khôi đá khống lồ vươn hay lun. Tương truyền thời xưa có ba nàng tiên quyến luyến cành (lụp trần gian, đã từ trên trời bay xuồng và hóa thành hòn (lá ha nàng tiên, Ngoài ra, còn có hòn Đá Mặt Quỷ đứng sừng sưng, có hình thân người khổng lồ mặc áo giáp. Bệ đá tiên sáng lóng lánh như chỗ tiên ngoạn cánh. Giữa các vách núi dựng dưng là vô sô thác nước cháy xuống tung bọt trăng xóa, nổi tiếng nhất là dộng Vạn Thác. Chi trong phạm vi chiều dài một cây số đã có đơn tám cái thác và đầm nước lớn nhỏ khác nhau. Nước trong kho lá trong xanh nhưng vẫn nghe rõ tiếng chảy của thác. Đúng là núi cỏ sức truyền cảm của sự lung linh chao động, thật là thú vị.

Kim Cương ngoài ớ về phía Đông ngọn núi chính, nổi tiếng nơi cánh lớp thanh nhã. Trên núi có nhiều thác nước cháy xiết và nhiêu lấm nước trong như ngọc, rừng thông một màu xanh bi ốc. Mây t ráng và sương mù bao phủ đỉnh núi, tiếng muôn chim hót. thanh thớt trong rừng cây, cả khu núi xanh mờ như chiếc áo thì mỏng khoác lên người, làm cho sương và mây cũng nhuộm thanh màu xanh. Tiếng nước suối chảy rì rầm như một khúc nhạc sơn ca tai, dến núi non cũng trở nên huyền ảo phiêu diêu.


Đọc thêm tại:

Đôi nét về Bắc Kinh

Bắc Kinh là thủ đô của nước Trung Hoa vĩ đại, nằm ở Tây Bắc của đồng bằng rộng lớn Hoa Bắc, phần phía Tây và phía Bắc có núi non bao bọc, phía Nam là vùng đất bằng phẳng ngó ra Bột Hải(vùng biển ở giữa bán đảo Sơn Đông và bán đảo Liêu Đông). Sau lưng là núi, trước mặt là biển, địa thế thật lý tưởng. Vào thời hoang dã, khoảng 6-7 trăm ngàn năm trước đây, tổ tiên người Trung Hoa-“Người Bắc Kinh”- đã sinh sống đông đúc trên vùng đất này, họ đã sáng tạo ra nền văn hóa viễn cổ, biến nơi đây thành một trong những nơi sản sinh ra nền văn minh của dân tộc Trung Hoa. Theo tài liệu lịch sử, thành Bắc Kinh có từ thời Tây Chu (Khoảng thế kỷ XI trước công nguyên), tên gọi ban dầu là Kế. Đến thời Xuân thu, Chiến quốc đối thành Yên Đô, đến thời Hán gọi là U Châu. Đời Liêu là Bồi đô (Kinh đô phụ), gọi là Yên Kinh. Đời Kim xây dựng kinh đô ở đây, gọi là Trung đô. Đến đời Nguyên gọi là Đại đô. Đời Minh, đời Thanh gọi là Bắc Kinh. Từ ngày 1 tháng Mười năm 1949 đến nay, Bắc Kinh là thủ đồ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

Bắc Kinh


Hơn 3.000 năm lịch sử phát triển đô thị, gần 1.000 năm làm kinh đô vương triều đã để lại cho Bắc Kinh ngày nay vô vàn danh lam thắng cảnh, di tích lịch sứ, Bắc Kinh đã trở thành một thành phố nổi tiếng trên thế giới về văn hóa và lịch sử.
Thành cổ Bắc Kinh phân ra thành bốn lớp: cung thành, hoàng thành, thành nội và thành ngoại. Đường phố chia ngang cắt dọc như bàn cờ. Trục Nam-Bắc dài 8 km, phía Bắc khởi từ Gác Tống (Cổ Lâu) đến phía Nam tại cứa Vĩnh Định (Vĩnh Định Môn). Trục Đông-Tây dài 4 km. Hai trục giao nhau tại Thiên An Môn. Thiên An Môn (cửa Thiên An) là cứa chính của hoàng thành cũ. Cửa thành có 5 vọng lâu, gác cao có 9 cột, là nơi phát chiếu lệnh của vua chúa nhà Minh và nhà Thanh. Ngày 01 tháng Mười năm 1949, tại gác lẩu Thiên An Môn, Chu tịch Mao Trạch Đông long trọng tuyên bó” với toàn thế giới “Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đa thành lập”. Từ đó Thiên An môn trở thành biểu tượng của nước Trung Hoa mới. Quảng trường trước Thiên An Môn là quáng trường lớn nhất thế giới, diện tích 400.000 m2, là nơi nhân dân Trung Quốc tổ chức các ngày hội lớn, duyệt binh, mít tinh, diễu hành. Giữa quảng trường Thiên An Môn là dài tưởng niệm các anh hùng (lân tộc và Nhà lưu niệm Chú tịch Mao Trạch Đông. Mặt phía Táy là Cung đại lễ đường nhân dân, mặt phía Đòng là Nhà Bảo tàng Cách mạng và Nhà Bảo tàng Lịch sử. Cứ mỗi buổi sáng sớm, tại quảng trường này, lá cờ nền đỏ năm sao vàng tươi tắn được kéo len giữa tiếng nhạc Quốc ca hùng tráng, báo hiệu mở đầu một ngày mới của đất nước. Và cứ mỗi sáng sớm,hàng ngàn người đổ về quảng trường chiêm ngưỡng nghi lễ kéo cờ trang nghiêm này.



Đọc thêm tại:

Sông nước ở Quế Lâm

Dòng sông xanh biếc đẹp như tranh phát ra tiếng sóng dịu dàng và ánh sáng lung linh, chầm chậm chảy qua phía Đông thành Quế Lăm. Ly Giang mang bốn vẻ đẹp là “xanh, lạ, đẹp và luôn biến hóa. Xanh là vẻ đẹp cứa nước sông biêng biếc trong suốt, cổ thể nhìn thấy những hòn đá cuội dưới đáy sông và cúc loại cá nhỏ bơi lội tung tăng trong nước; lạ lùng là trăm nghìn núi non kỳ diệu chạy dài hai bên bờ sông; đẹp là nét kỳ ảo, xinh xán cửa cánh vật Ly Giang, trên sông có cảnh, trong nước có hình bóng, cảnh sông, cảnh núi, cảnh nước, cảnh đá, cảnh hang động… đều hiện rõ đẹp mắt và lạ mắt khắp mọi nơi; biến hóa là non nước Ly Giang luôn luôn thay đổi cảnh đẹp của mình, khi thì xanh tươi như cánh đồng cỏ, êm ả như chốn làng quê; khi thì ngọn núi nhấp nhô trùng điệp như rừng cây, vách núi cao dựng đứng; khi thì non xanh nước biếc, mặt nước phẳng lăng như tờ ; khi thì sóng tung bọt trắng, nước xiết cồn nhô… Ngồi thuyền từ Quế Lâm xuôi dòng về phía Nam, chỉ thấy Núi xanh nhấp nhô vươn cao từ trong nước, thuyền bè xuôi ngược trên đỉnh núi xanh. Phong cảnh hai bèn bờ như thơ như họa, du khách cảm thấy mình như nhân vật chính trong tranh.

Quế Lâm


Mỗi độ thặng ba cuối xuân, màn mưa mờ che phu Quế Lâm, bức tranh sơn thủy nơi đây càng trỏ nên huyền diệu. Để ghi lại cảnh mưa xuân huyền diệu trên dòng Ly Giang đó, nhà danh họa hiện dại Từ Bi Hồng đã thả thuyền trên sông Ly Giang vẽ suốt ba ngày liền. Vì thế mà cảnh đẹp “Quế Lâm mưa” cùng sánh vai với “Trùng Khánh sương mù” và “Thượng Hải về đêm” xứng với lời khen ngợi “Cảnh sông núi Quế Lâm đứng vào hàng bậc nhất thiên hạ”.



Đọc thêm tại:

Động nham thạch ở Quế Lâm

Động nham thạch này chia làm ba tầng: trên, giữa và dưới. Tầng trên cao hơn tầng giữa từ 8 đến 12m, tầng dưới thấp hơn tầng giữa từ 10 đến lõm, hàng năm bị ngập khuất bởi dòng nước ngầm đang biến dần thành một dòng sông trong lòng đất. Tầng giữa là nơi du ngoạn chính, đã được bảo tổn và tu tạo hoàn chỉnh, có lối đi ngoạn cảnh dài hơn 800m, chỗ rộng nhất là 43m, chỗ cao nhất là 27m, lối đi trong động quanh co, sâu thẳm và tĩnh mịch, hang liền với hang chồng chất lên nhau, tạo thành một hành lang dài trong động rất đẹp mắt do bảy hang động kết nối lại. Động nham thạch Lô Địch nằm dưới chân núi Quang Minh ở ngoại vi hướng Tây Bắc thành phố Quế Lâm. Đá nham thạch trong động thật ly kỳ đẹp mắt, tạo nên những hình dáng tạo hình đặc sắc. 

Quế Lâm


Du khách bước vào động sẽ thấy những dòng nước chảy uốn quanh, chỏm đá lô nhô như rừng cây. Thạch nhũ treo lơ lững khắp vách đá, mang hình thù giống như người, như vật, như cầm thú… muôn hình muôn vẻ thật kỳ diệu. Trăm ngàn thạch nhũ tạo nên nhiều hình dáng khác nhau, mỗi hình dáng cánh vật mang một cái tên rất hay, nào là “Cao Hiệp Phi Bộc” (Khe cao Thác Bay), “Sư Lĩnh Triều Hà” (Núi sư tủ ngắm ráng chiều), “Nguyên Thủy Thâm Lâm” (Rừng sâu nguyên thúy), “Tuyết Sơn Đào Anh” (Núi tuyết soi bóng), nào là “U Cảnh Thính Dịch” (Cảnh tĩnh mịch nghe tiếng sáo), “Bàn Long Ngọc Trụ” (Hổng lượn trụ ngọc), “Hoa Quá Sơn” (Núi hoa quả), ‘Trân Châu Tháp” …tùy du khách liên tưởng. Dòng nước ngâm trong dộng lúc ẩn lúc hiện, cháy quanh nhưng trụ nhỏ như húp , lời thơ tả thật sinh động: Thạch thượng sinh linh trung lạc dị hoa (Trên đá mọc măng , giữa suối nơ hon ngAn). Thinh thoảng du khách nhìn thấy hút tích người còn hiu lại trên vách đá. Trên đường thưởng ngoạn,du kích như lạc vào cánh tiên, động đá ở đây (lược coi la “cung điện nghệ thuật thiên nhiên”.



Cảnh tiên non nước Quế Lâm

        Dưới chân núi về phía Bắc vốn là cửa suối xanh, vương phu Tính Giang đời Minh đã cho đào nơi dây thành một cái hồ, hình trăng lưỡi liềm, vì thế có tên là “hồ Nguyệt Nha” trở thành một trong bốn hồ nối tiếng của Quế lâm.         Quả núi “vòi voi” tọa lạc tại nơi gặp nhau của hai con sông Ly Giang và Dương Giang mang hình ảnh sinh động như thật, thu hút sự thưởng ngoạn của nhiều người, đả trở thành hình ánh tượng trưng Quế Lâm. Cái đẹp kỳ diệu của núi “Vòi voi” không những hình dáng giống như thật mà còn là ở khoáng giữa mũi voi và chân voi là một lỗ trống hình tròn đều ngay trên mặt nước, từ xa nhìn tới giống như mặt trăng tròn vành vạnh. Đêm trăng sáng, cái vòng tròn trống đó in hình xuống nước như một vầng trăng tròn, sáng lung linh nổi trên mặt nước. “Núi voi trăng nước” trở thành cảnh đẹp kỳ ảo của Quế Lâm.

       Ngoài ra còn nhiều dãy núi muôn màu muôn vẻ chồng chất nhấp nhô như những dái gấm lụa. Núi Thư Đồng có hình dáng giống như một thư sinh tay cầm sách chăm chú đọc, núi Phụ Ba như nước cuộn sóng dỗi, núi Nam Khê hai ngọn núi xếp thẳng nhau, màu đá trắng xóa… núi hình tháp, núi hình xoắn ốc, núi hình chiếc nón… đứng cao sừng sững như hàng nghìn búp măng bằng ngọc. Người xưa nói: “Núi non Quế Lâm đẹp và lạ bậc nhất trong thiên hạ”, quá đúng như vậy.


Quế Lâm


       Ở Quế Lâm không có núi nào không có hang động, không có hang động nào không có hình dáng lạ mắt, đã có hơn hai ngàn hang đá, đó là những động đá cố xưa huyền bí: động xuyên qua núi, động luồn sâu dưới lòng đất, động một lối đi, động nhiều ngóc ngách, động riêng lẻ, động quần thế w… có động nằm cao trên đinh núi, có động luồn ngang dòng nước cháy, có dộng án sâu vào trong lòng núi. Bước chân vào hang động như có cảm giác bước vào mê cung dưới lòng đất đầy huyền bí. Thường nghe nói đến nhất là núi Thất Tinh (núi Bảy Sao) và núi Ló Địch núi Sáo Lau).

        Núi Thất Tinh nằm ở phía Đông thành phố Quế Lâm, núi này có mấy mươi hang động, trong đó động thạch nham Thất Tinh là đặc biệt nhất. Tên gọi xưa của động nham thạch nãy là động Tây Hà, nằm trong lòng ngọn núi. Hơn 1300 năm trước đây, tăng sư Đàm Thiên đã đến nơi này và ghi lại ba chừ “Tây Hà Động”.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: lich su van ly truong thanh, ky quan the gioi